Tuyên truyền
về phòng chống đuối nước
Mùa hè là thời điểm số vụ tai nạn đuối nước trẻ em gia tăng do trẻ em
bước vào kỳ nghỉ hè vì vậy các gia đình cần nâng cao ý thức trong việc tìm hiểu
và áp dụng những biện pháp phòng tránh đuối nước cho trẻ nhỏ.
Nguyên nhân gây đuối nước:
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tai nạn đuối
nước ở trẻ em, trong đó, nguyên nhân phổ biến dẫn tới những tai nạn đuối nước
thương tâm là do thiếu sự giám sát của người lớn, chủ quan của bố mẹ để trẻ tự
do vui chơi tại những khu vực nguy hiểm như sông, suối, ao, hồ…
Tai nạn đuối nước cũng một phần là do
trẻ không biết bơi, chưa được dạy kỹ năng đảm bảo an toàn và xử lý tình huống
khi bơi và không có kỹ năng cứu đuối. Bên cạnh đó, cũng xảy ra trường hợp trẻ
bị chết đuối do sự không an toàn của các môi trường sống xung quanh.
Ngoài ra, phải kể đến một thực trạng: Đó là
khi các em cứu lẫn nhau, do kiến thức trong việc cấp cứu, sơ cứu người bị chết
đuối còn hạn chế, dẫn đến tình trạng số lượng trẻ bị chết đuối tăng lên.
Các biện pháp phòng tránh đuối nước:
Để phòng tránh đuối nước ở trẻ nhỏ vào mùa
hè, các bậc phụ huynh, cha mẹ, thầy cô cần có những biện pháp:
1. Cần đảm bảo sức khỏe con em mình có đảm
bảo để có thể tham gia hoạt động bơi lội hay không? Nhiều bậc phụ huynh không
biết rằng, không phải trẻ em nào cũng có thể học bơi. Ví dụ như những em nhỏ
mắc các bệnh hen phế quản; bệnh đường hô hấp mạn tính: Viêm mũi dị ứng, viêm
mũi xuất tiết, viêm xoang mạn; viêm da dị ứng…không nên xuống nước vì có thể
làm bệnh nghiêm trọng hơn, dẫn tới những tai nạn không mong muốn khi bơi. Để
đảm bảo sức khỏe cho trẻ khi đi bơi phụ huynh cần lưu ý nên cho trẻ đi khám bác
sỹ để quyết định trẻ có thể tham gia bơi lội không.
2. Bên cạnh đó, để phòng đuối nước cho trẻ,
việc đầu tiên và quan trọng nhất đó là dậy trẻ biết bơi. Các bậc cha mẹ cần
trang bị kỹ năng đảm bảo an toàn, xử lý tình huống khi bơi cho các em nhỏ như: Cần
phải khởi động kỹ trước khi xuống nước, xử lý sao khi bị chuột rút, gặp vùng
nước xoáy, cách sơ cứu khi gặp người bị đuối nước phù hợp với lứa tuổi...Tuy
nhiên, hiện nay việc dạy bơi cho trẻ chỉ dừng lại ở mức độ tự phát, tình trạng
thiếu bể bơi, thiếu kỹ thuật bơi căn bản cũng là yếu tố ảnh hưởng tới việc dạy
trẻ kỹ năng này. Vì vậy, một giải pháp đó là các nhà trường có thể dạy kỹ năng
bơi cho trẻ tại trường học như một chương trình bắt buộc.
3. Cần cảnh báo trẻ về những nơi tiềm ẩn nguy
cơ đuối nước như sông, suối, ao, hồ, những vùng nước sâu.
4. Đối với các bể bơi, cần lưu ý các em chỉ
bơi ở những nơi có người và phương tiện cứu hộ và đặc biệt phải tuân thủ các
quy định của bể bơi, khu vực bơi. Khi trẻ đi bơi cần phải luôn bên cạnh, trông
chừng và theo dõi trẻ, tránh trường hợp đáng tiếc xảy ra. Cần đảm bảo trẻ luôn
mang theo phao khi đi bơi và đi tàu thuyền.
5. Khi đi tắm biển hay sông, người biết bơi
hay không cũng chỉ nên tắm gần bờ, đặc biệt là ở biển, vì dù biết bơi cũng rất
khó để bơi do sóng biển đánh liên tục. Nhiều người thường nằm trên phao khi tắm
biển. Điều này cũng khá nguy hiểm vì bạn sẽ dễ bị cuốn ra xa mà không biết,
nhiều khả năng bạn sẽ bị sóng đánh úp, những cơn sóng dồn dập khiến bạn không
biết xử lý như thế nào và sẽ bị uống nước nhiều, mất sức.
6. Ở nhà có trẻ nhỏ tốt nhất không nên để
những lu nước, thùng nước, nếu bắt buộc phải có (như vùng phải tích trữ nước
ngọt để dùng) nên đậy thật chặt để trẻ em không mở nắp được.
7. Chấp hành tốt các quy định về an toàn khi
tham gia các phương tiện giao thông đường thủy như mặc áo phao.
8. Tạo hành lang pháp lý phù hợp: Cần chỉ rõ
đầu mối chịu tránh nhiệm mỗi khi có tai nạn xảy ra... từ đó có các chế tài hợp
lý.
9. Khi phát hiện thấy người bị ngã xuống
nước, cần hô hoán, kêu gọi mọi người đến ứng cứu, giúp đỡ ngay từ khi nhìn thấy
nạn nhân. Đồng thời, cần nhanh chóng tìm bất kỳ vật dụng nào để có thể cứu gián
tiếp như: cây sào, phao, áo, quần, dây nịt… Hãy cho những người bị đuối nước
bám vào các vật dụng này để người trên bờ kéo dần vào. Như vậy, việc cứu nạn sẽ
hiệu quả hơn. Tuyệt đối không được nhảy theo cứu nạn nhân nếu mình không biết
bơi và không biết cách cứu đuối vì bản thân mình cũng có thể bị đuối nước.
Đối với người lớn và trẻ lớn:
Khi thấy một người đang hốt hoảng trên mặt nước hãy nhanh chóng
đưa cho họ bất cứ thứ gì có thể giúp họ bám vào và nổi lên được. Nếu chỉ có một
mình và 2 tay không, nếu không phải là một nhân viên cấp cứu nhiều kinh nghiệm
thì bơi ra cứu nạn nhân là điều rất mạo hiểm dù là một tay bơi giỏi vì trong
cơn hoảng loạn cực độ, nạn nhân thường có khuynh hướng vùng vẫy, níu kéo rất
chặt gây khó khăn cho người cấp cứu và có nguy cơ làm chết đuối luôn cả hai.
Nên ném cho nạn nhân một phao nổi trước cho nạn nhân bám vào, sau đó mới cho
nạn nhân bám vào người cứu hộ.
Tại nơi xảy ra tai nạn: cấp cứu ngay ở dưới nước, nắm tóc kéo
đầu nạn nhân nhô lên khỏi mặt nước, tát mấy cái thật mạnh vào má nạn nhân để
gây phản xạ hồi tỉnh và thở lại. Nhanh chóng quàng tay qua nách, hoặc kêu thêm
người hỗ trợ đưa nạn nhân vào bờ. Cấp cứu tại chỗ là quan trọng nhất, quyết
định sự sống còn của nạn nhân, nếu xử trí chậm, nạn nhân bị thiếu ôxy não rất
khó cứu sống sau đó.
Khi đưa được nạn nhân lên bờ hay lên thuyền phải tiến hành ngay
hô hấp nhân tạo, hà hơi thổi ngạt: khai thông đường hô hấp bằng cách đặt nạn
nhân nằm ưỡn cổ nghiêng sang một bên, dùng gạc hay khăn vải móc đờm dãi, dị vật
khỏi đường thở và miệng nạn nhân; đặt một khăn mùi soa hay miếng gạc qua miệng
nạn nhân, dùng hai ngón tay cái và trỏ bịt mũi nạn nhân rồi thổi hơi trực tiếp
vào miệng nạn nhân. Nếu ngừng tim (sờ mạch quay không có) phải ép tim ngoài
lồng ngực. Dùng hai tay chồng lên nhau ép lên lồng ngực ngoài tim, tần số ép
khoảng 100 lần/1 phút.
- Nếu có một người cấp cứu thì thổi ngạt 2 - 3 hơi lại ép tim
ngoài lồng ngực 10 - 15 nhịp.
- Nếu có hai người cấp cứu thì một người thổi ngạt, một người ép
tim ngoài lồng ngực, làm kiên trì cho đến khi tim đập và thở trở lại.
Khi tỉnh lại, nạn nhân sẽ nôn ra nước, nên phải để nạn nhân ở tư
thế an toàn, đầu nằm nghiêng, kê gối dưới hai vai, nới rộng quần áo, phòng cho
nạn nhân không bị ngạt trở lại vì sặc chất nôn. Chỉ bỏ cuộc khi đã hô hấp nhân
tạo và ép tim được 2 tiếng mà không thấy nạn nhân phục hồi.
Đối với trẻ nhỏ:
Khi gặp trẻ đuối nước người ta thường vác dốc ngược trẻ trên
vai, động tác dốc ngược nạn nhân chỉ có tác dụng khai thông vùng họng và miệng,
vì vậy không nên thực hiện ở người lớn và không nên làm quá 1 phút ở trẻ em.
Đặt trẻ nằm ở chỗ khô ráo, thoáng khí. Nếu trẻ bất tỉnh, hãy
kiểm tra xem có còn thở không bằng cách quan sát sự di động của lồng ngực. Nếu
lồng ngực không di động tức là trẻ đã ngưng thở; thổi ngạt miệng qua miệng 2
cái chậm. Nếu sau đó trẻ vẫn chưa thở lại được hoặc còn tím tái và hôn mê
thì xem như tim đã ngưng đập, cần ấn tim ngoài lồng ngực ngay. Ấn vào vùng nửa
dưới xương ức theo cách như sau:
- Dùng 2 ngón tay cái (đối với trẻ dưới 1 tuổi) ấn ở vị trí giữa
và dưới đường nối hai đầu vú 1 đốt ngón tay (tức khoảng bằng bề ngang một ngón
tay).
- Dùng 1 bàn tay (đối với trẻ từ 1-8 tuổi) hoặc 2 bàn tay đặt
chồng lên nhau (đối với trẻ hơn 8 tuổi và người lớn) ấn vào phía trên mỏm ức 2
đốt ngón tay. Phối hợp ấn tim và thổi ngạt theo tỷ lệ 5/1 (đối với trẻ dưới 8
tuổi) hoặc 15/2 (đối với trẻ trên 8 tuổi).
Cần lưu ý là vẫn phải tiếp tục thực hiện các động tác cấp cứu
này trên đường chuyển nạn nhân tới cơ sở y tế, cho đến khi tự thở lại được
hoặc chắc chắn đã chết. Việc cấp cứu này đôi khi phải mất hàng giờ hoặc lâu
hơn. Nếu lồng ngực còn di động tức là trẻ còn tự thở được, hãy đặt trẻ nằm
ở tư thế an toàn, nghĩa là nằm nghiêng một bên để nếu nôn ói thì chất nôn dễ
dàng thoát ra ngoài và không trào ngược vào phổi, gây viêm phổi.
- Nếu sơ cứu có kết quả, nạn nhân thở lại, cử động giãy giụa,
hay nạn nhân vẫn còn mê nhưng đã có mạch và nhịp thở thì gọi xe cấp cứu hay
dùng mọi phương tiện sẵn có chuyển nạn nhân đến cơ sở y tế có trang bị hồi sức
cấp cứu. Quá trình vận chuyển vẫn phải tiếp tục cấp cứu và đắp giữ ấm cho
nạn nhân.
- Trường hợp nạn nhân đã ngừng thở, ngừng tim thì nhanh chóng
dốc ngược đầu nạn nhân cho nước trong đường thở thoát ra hết; sau đó đặt
nạn nhân trên mặt phẳng cứng, ngửa cổ nạn nhân ra sau, móc hết đàm nhớt, dị vật
trong miệng nạn nhân ra, một tay đặt lên trán nạn nhân, bịt mũi nạn nhân bằng
ngón trỏ và ngón cái, sau đó hít sâu, áp miệng người cấp cứu vào miệng nạn nhân
thổi 2 hơi đầy; để lồng ngực tự xẹp và thổi tiếp lần thứ hai. Thực hiện cho đến
khi nạn nhân thở được hoặc có xe cấp cứu đến.
Nếu nạn nhân bị ngưng tim nên tiến hành xoa bóp tim ngoài lồng
ngực song song với hô hấp nhân tạo.
Những việc cần chú ý trong quá trình cấp cứu đuối nước:
- Không được chậm trễ trong cấp cứu người bị đuối nước: tìm cách
gọi xe cấp cứu, tìm cho được và đầy đủ các phương tiện cấp cứu . v.v... mà phải
bằng mọi cách và khả năng hiểu biết cấp cứu ngay
- Không nên cố tìm cách cho nước trong phổi nạn nhân chảy hết ra
ngoài bằng cách xốc nước (vác nạn nhân chạy vòng vòng cho nước chảy ra) vì như
thế sẽ bỏ lỡ thời gian vàng cho việc làm hồi sức cấp cứu tim phổi mà chỉ cần
chậm trễ 4 phút thôi là não có nguy cơ bị chết rồi! Trong quá trình hồi sức cấp
cứu tim phổi, nước trong phổi sẽ tự động thoát ra ngoài. Nếu là nước sông, hồ
thì nước sẽ thấm vào hệ tuần hoàn rất nhanh do hiện tượng thẩm thấu (nước sông
có nồng độ loãng hơn máu).
- Khi làm xoa bóp tim ngoài lồng ngực, cần chú ý không quá mạnh
bạo vì có thể làm gãy xương sườn nạn nhân, nhất là trẻ nhỏ.
Với ngạt nước, sơ cứu tại chỗ và đúng kỹ thuật là những yếu tố
quan trọng nhất, quyết định đến sự sống còn và khả năng bị di chứng não của
người bị nạn.
* Để phòng, chống tai nạn đuối nước ở trẻ nhỏ, các bậc phụ
huynh, thầy cô giáo và mọi người cần thực hiện những gì?
Đề phòng tai nạn đuối nước các bậc phụ huynh, thầy cô giáo, mọi
người và các em học sinh cần quan tâm đến công việc sau đây:
1. Đối với trẻ lớn và người lớn:
- Không nên nhảy xuống vùng nước mà không biết nơi đó nông hay
sâu, có lối thoát khi gặp nguy hiểm hay không.
- Khi đi bơi nên đi chung với những người bơi giỏi và nên mang
theo phao khi đi bơi và đi tàu thuyền.
- Không ăn no, không uống rượu trước khi xuống nước.
- Chỉ đi bơi ở các hồ bơi bảo đảm an toàn và có nhân viên cứu hộ
giám sát.
2. Đối với trẻ nhỏ:
- Trẻ em khi bơi phải được người lớn giám sát thường xuyên và
không được rời mắt để làm công việc khác như đọc sách, tán chuyện gẫu, chơi
bài…
- Ở nhà có trẻ nhỏ tốt nhất không nên để những lu nước, thùng
nước, nếu bắt buộc phải có (như vùng phải tích trữ nước ngọt để dùng) nên đậy
thật chặt để trẻ em không mở nắp được.
- Nhà khá giả có hồ bơi nên rào kín xung quanh và cửa có khóa để
trẻ em không mở cửa được, có hệ thống báo động khi trẻ em vào.
- Nên cho trẻ tập bơi sớm (trên 4 tuổi).
3. Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em (Bộ LĐ,TB&XH) cũng đưa ra 8
khuyến cáo để các bậc phụ huynhvà các bạn phòng tránh chết đuối cho con em
mình, cho các bạn như sau:
- Không được đi tắm, bơi ngoài sông, suối mà không có người lớn
biết bơi đi kèm
- Không chơi, đùa nghịch quanh ao, hồ nước, hố sâu, hố vôi
đang tôi để tránh bị ngã, rơi xuống hố.
- Nhà ở gần vùng sông nước, ao hồ cần làm cửa chắn và rào
quanh nhà.
- Nên nhắc cha mẹ lấp kín các hố, rãnh nước sau khi sử dụng.
- Nhắc cha mẹ làm nắp đậy chắc chắn, an toàn cho giếng, bể nước,
chum vại.
- Nên có người lớn đưa đi học trong mùa mưa lũ, đặc biệt khi
phải đi qua suối, sông
- Nên nhắc người lớn dạy bơi cho các bạn./.
TIN: LĐTB&XH